Context of Kerala

Kerala, tên cũ là Keralam, là một bang thuộc miền Nam Ấn Độ. Bang được thành lập ngày 1 tháng 11 năm 1956 theo Đạo luật Tái tổ chức Bang, theo đó những vùng nói tiếng Malayalam tập hợp thành bang Kerala. Kerala rộng hơn 38.863 km², tiếp giáp bang Karnataka về phía bắc và đông bắc, bang Tamil Nadu về phía đông và nam, và biển Laccadive về phía tây. Theo thống kê năm 2011, Kerala có 33.387.677 dân, là bang đông dân thứ mười ba tại nước này. Bang được chia làm 14 huyện, trong đó có thủ phủ Thiruvananthapuram. Tiếng Malayalam là ngôn ngữ phổ biến nhất và cũng là ngôn ngữ chính thức của bang.

Từ khoảng năm 3000 trước Công nguyên, vùng đất Kerala đã nổi tiếng là nơi buôn bán gia vị sầm uất. Trong giai đoạn từ thế kỉ 3 trước Công nguyên cho đến thế kỉ 12 sau Công nguyên, Kerala thuộc Chera, một vương quốc quan trọng ở miền Nam Ấn Độ và thường có xung đột với các nước láng giềng Chola và Pandya. Đến thế kỉ 15, người Bồ Đào Nha đã đặt chân đến Kerala với mục đích tìm kiế...Xem thêm

Kerala, tên cũ là Keralam, là một bang thuộc miền Nam Ấn Độ. Bang được thành lập ngày 1 tháng 11 năm 1956 theo Đạo luật Tái tổ chức Bang, theo đó những vùng nói tiếng Malayalam tập hợp thành bang Kerala. Kerala rộng hơn 38.863 km², tiếp giáp bang Karnataka về phía bắc và đông bắc, bang Tamil Nadu về phía đông và nam, và biển Laccadive về phía tây. Theo thống kê năm 2011, Kerala có 33.387.677 dân, là bang đông dân thứ mười ba tại nước này. Bang được chia làm 14 huyện, trong đó có thủ phủ Thiruvananthapuram. Tiếng Malayalam là ngôn ngữ phổ biến nhất và cũng là ngôn ngữ chính thức của bang.

Từ khoảng năm 3000 trước Công nguyên, vùng đất Kerala đã nổi tiếng là nơi buôn bán gia vị sầm uất. Trong giai đoạn từ thế kỉ 3 trước Công nguyên cho đến thế kỉ 12 sau Công nguyên, Kerala thuộc Chera, một vương quốc quan trọng ở miền Nam Ấn Độ và thường có xung đột với các nước láng giềng Chola và Pandya. Đến thế kỉ 15, người Bồ Đào Nha đã đặt chân đến Kerala với mục đích tìm kiếm các loại gia vị được người châu Âu ưa chuộng, từ đó dẫn đến việc vùng đất Kerala và sau này là cả Ấn Độ trở thành thuộc địa của thực dân châu Âu. Đến khi Ấn Độ giành được độc lập năm 1949, vương quốc Travancore và thành phố Cochin gia nhập Cộng hòa Ấn Độ, Travancore-Cochin trở thành một bang năm 1949. Năm 1956, bang Kerala chính thức được thành lập bằng cách kết hợp phần lớn bang Travancore-Cochin cũ với huyện Malabar và huyện Kasaragod.

Trong các bang của Ấn Độ, Kerala nổi bật về mặt nhân khẩu với một số đặc điểm sau: chỉ số phát triển con người (HDI) cao nhất, đạt 0,790 năm 2011 (so với mức trung bình cả nước 0,513); tỷ lệ biết chữ cao nhất, 93,91% năm 2011 (trung bình cả nước là 74,04%); tuổi thọ trung bình cao nhất, 77 tuổi năm 2004 (trung bình cả nước là 63,5 tuổi); và tỷ lệ giới tính nữ trên nam cao nhất, 1084 nữ trên 1000 nam năm 2011 (trung bình cả nước là 940 nữ trên 1000 nam). Trong thập niên 1970 và 1980, kinh tế các nước Ả Rập vùng Vịnh phát triển mạnh đã thu hút một số lượng lớn người lao động Kerala di cư sang các nước này, dẫn đến hệ quả ngày nay kinh tế bang Kerala phụ thuộc vào nguồn kiều hối từ cộng đồng Kerala ở nước ngoài. Ấn Độ giáo là tôn giáo phổ biến nhất tại Kerala, bên cạnh Hồi giáo và Kitô Giáo.

Kerala là bang sản xuất hồ tiêu và cao su quan trọng của Ấn Độ. Dừa, chè, cà phê, hạt điều và các loại gia vị chiếm vai trò lớn trong nền nông nghiệp của bang cùng với hoạt động khai thác thủy sản nhờ đường bờ biển dài gần 600 km. Kerala có ngành truyền thông phát triển với các đầu báo phát hành bằng 9 thứ tiếng, chủ yếu là tiếng Anh và tiếng Malayalam. Kerala cùng là địa điểm du lịch nổi tiếng của Ấn Độ với những hồ nước, đầm phá, bãi biển đẹp, cảnh quan nhiệt đới xanh tươi và hình thức du lịch chữa bệnh Ayurveda.

More about Kerala

Population, Area & Driving side
  • Population 33406061
  • Diện tích 38863
Lịch sử
  • Lịch sử Thời tiền sử  Mộ đá tại thị trấn Marayur, bang Kerala

    Một phần đáng kể Kerala có thể từng nằm dưới mặt biển từ thời xa xưa, với việc những hóa thạch sinh vật biển được tìm thấy tại khu vực gần Changanacherry (miền nam Kerala) đã củng cố thêm cho giả thuyết này.[1]

    Những phát hiện khảo cổ học tại Kerala bao gồm các mộ đá của thời đồ đá mới tại Marayur, huyện Idukki mà người dân địa phương gọi chúng là "muniyara", từ này xuất phát từ muni (nhà tu hành hay nhà hiền triết) và ara (mộ đá).[2] Bên cạnh đó, có những bảng khắc đá trong nhóm hang Edakkal, Wayanad có niên đại từ năm 6000 TCN.[3][4] Các nhà khảo cổ cũng phát hiện những vùng di tích thời đồ đá giữa và đồ đá mới tại Kerala;[5] và nghiên cứu khảo cổ học chỉ ra rằng xã hội và văn hóa Kerala đã phát triển ngay từ thời đại đồ đá cũ.[6] Sự tiếp xúc bên ngoài đã góp phần vào sự hình thành văn hóa này;[7] và sau thời kỳ đồ đá, có khả năng người dân Kerala đã có những tiếp xúc với văn minh lưu vực sông Ấn vào cuối thời đại đồ đồng và đầu thời đại đồ sắt.[8]

    ...Xem thêm
    Lịch sử Thời tiền sử  Mộ đá tại thị trấn Marayur, bang Kerala

    Một phần đáng kể Kerala có thể từng nằm dưới mặt biển từ thời xa xưa, với việc những hóa thạch sinh vật biển được tìm thấy tại khu vực gần Changanacherry (miền nam Kerala) đã củng cố thêm cho giả thuyết này.[1]

    Những phát hiện khảo cổ học tại Kerala bao gồm các mộ đá của thời đồ đá mới tại Marayur, huyện Idukki mà người dân địa phương gọi chúng là "muniyara", từ này xuất phát từ muni (nhà tu hành hay nhà hiền triết) và ara (mộ đá).[2] Bên cạnh đó, có những bảng khắc đá trong nhóm hang Edakkal, Wayanad có niên đại từ năm 6000 TCN.[3][4] Các nhà khảo cổ cũng phát hiện những vùng di tích thời đồ đá giữa và đồ đá mới tại Kerala;[5] và nghiên cứu khảo cổ học chỉ ra rằng xã hội và văn hóa Kerala đã phát triển ngay từ thời đại đồ đá cũ.[6] Sự tiếp xúc bên ngoài đã góp phần vào sự hình thành văn hóa này;[7] và sau thời kỳ đồ đá, có khả năng người dân Kerala đã có những tiếp xúc với văn minh lưu vực sông Ấn vào cuối thời đại đồ đồng và đầu thời đại đồ sắt.[8]

    Thời cổ đại  Bên trong hội đường Do Thái giáo Paradesi

    Theo những ghi chép của người Sumer cổ đại, Kerala đã xuất khẩu gia vị với quy mô lớn từ năm 3000 trước Công nguyên và cho đến ngày nay, Kerala vẫn giữ được vị thế này với tên hiệu "vườn gia vị của Ấn Độ".[9][10] Sự phong phú về gia vị của Kerala đã thu hút các thương nhân từ Babylon, Assyria và Ai Cập đến buôn bán từ thiên niên kỉ 3 và 2 trước Công nguyên. Vào thời hoàng đế Ashoka, vùng đất với tên gọi Keralaputra là một trong bốn vương quốc cổ đại của miền Nam Ấn Độ cùng với Chola, Pandya, và Satiyaputra.[11] Keralaputra được coi là tên gọi khác của vương quốc Chera, vương triều lớn đầu tiên cai trị miền đất Kerala.[12][13]

    Vào thiên niên kỉ 1 trước Công nguyên, vùng bờ biển Kerala đóng vai trò quan trọng trong giao thương với Hy Lạp và La Mã nhờ mặt hàng gia vị, đặc biệt là hồ tiêu. Vương quốc Chera cũng duy trì các mối quan hệ thương mại với Trung Quốc, Tây Á và Ai Cập thông qua Con đường tơ lụa trên biển[14].

    Do thương mại phát triển, nhiều thương nhân từ Tây Á và Nam Âu đã thành lập các điểm buôn bán, thậm chí định cư và kết hôn với cư dân bản địa tại Kerala.[15] Những thương nhân này mang theo tôn giáo của họ đến Kerala, khiến vùng đất này tiếp xúc với nhiều tôn giáo nước ngoài từ rất sớm. Bang Kerala có Cheraman Juma (xây năm 629) là nhà thờ Hồi giáo đầu tiên của Ấn Độ[16] và Paradesi (xây năm 1569) là hội đường Do Thái giáo cổ nhất còn hoạt động trong toàn khối Thịnh vượng chung Anh.[17]

    Thời trung đại  Tranh vẽ vua của triều đại Chera

    Trong thời kỳ của vương quốc Chera thứ hai (800-1102), triều đại Kulasekhara cai trị một lãnh thổ bao gồm toàn bộ Kerala ngày nay và một phần của bang Tamil Nadu. Trong thời kỳ này, Kerala chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của nghệ thuật, văn học, thương mại và phong trào Bhakti của Ấn Độ giáo.[18] Một điểm đáng chú ý là bắt đầu từ thế kỉ 7, bản sắc văn hóa và ngôn ngữ của người Kerala đã dần tách biệt với người Tamil.[19] Toàn vương quốc được chia thành các tỉnh, đứng đầu là các lãnh chúa (gọi là "naduvazhi"). Mỗi tỉnh lại chia thành nhiều đơn vị nhỏ hơn gọi là "desam" và được cai trị bởi các quan ("desavazhi").

    Trong thế kỉ 11, chiến tranh liên miên với vương quốc Chola láng giềng khiến ngoại thương của vương quốc suy giảm. Cũng trong thời kỳ này, Phật giáo và Kỳ na giáo chấm dứt sự tồn tại ở Kerala và cấu trúc xã hội ở đây bị chia rẽ thành các đẳng cấp.[20][21] Năm 1102, vương triều Kulasekhara của Chera sụp đổ khi bị hai nước Pandya và Chola đồng loạt tiến đánh.

    Sang thế kỉ 14, vua Ravi Varma Kulashekhara của vương quốc Venad tại miền nam Kerala thống nhất được miền Nam Ấn Độ trong một thời gian ngắn ngủi. Sau khi ông mất, đất nước lại tan vỡ và vùng đất Kerala bị phân thành 30 tiểu quốc đánh lẫn nhau, trong đó hùng mạnh nhất là vương quốc Samuthiri ở miền bắc, Kochi ở miền trung, và Venad ở miền nam.

    Vào thế kỉ 18, vua Marthanda Varma của xứ Travancore dùng quân đội đánh dẹp và thống nhất được miền nam của bang Kerala ngày nay, rồi đạt được thỏa thuận hòa bình với người cai trị của Kochi. Tiểu vương quốc Travancore sau này sẽ nằm trong Raj thuộc Anh, trở thành tiền thân của miền nam bang Kerala ngày nay. Còn tiền thân miền bắc của Kerala là huyện Malabar thì lại nằm dưới sự cai trị trực tiếp của thực dân Anh.[22][23]

    Thời thuộc địa  Hành trình của Vasco da Gama đến Ấn Độ

    Người Ả Rập nắm độc quyền việc buôn bán gia vị giữa Ấn Độ và châu Âu trong suốt giai đoạn Trung kỳ Trung Cổ và Hậu kỳ Trung Cổ. Tuy nhiên, thế độc quyền đó dần suy yếu khi người châu Âu bước vào Thời đại Khám phá với những chuyến hải trình sang phương Đông để săn tìm gia vị, đặc biệt là hồ tiêu.[24] Năm 1498, Vasco Da Gama cập cảng thành phố Kozhikode ở Kerala, dẫn đến sự thống lĩnh của người Bồ Đào Nha trong thương mại với phương Đông.[25][26]

    Ban đầu, vua của Kozhikode cho phép người Bồ Đào Nha buôn bán với cư dân địa phương và thu được những khoản lợi nhuận to lớn. Nhưng sau đó, việc Bồ Đào Nha tấn công người Ả Rập trong địa phận vương quốc đã khiến vua Kozhikode nổi giận. Do đó, Bồ Đào Nha về sau đã liên minh với vương quốc địch thủ của Kozhikode là Kochi. Năm 1505, Bồ Đào Nha chỉ định Francisco de Almeida làm phó vương Ấn Độ thuộc Bồ Đào Nha và lập thủ phủ tại Kochi thay vì Kozhikode là nơi đầu tiên họ đặt chân đến. Người Bồ Đào Nha nhanh chóng xây dựng một vài pháo đài ở Ấn Độ nhưng sau đó bị quân Kozhikode đánh bại.

     Quân Hà Lan đầu hàng vua Travancore

    Lợi dụng mâu thuẫn giữa hai vương quốc Kozhikode và Kochi, Công ty Đông Ấn Hà Lan nhanh chóng hất cẳng người Bồ Đào Nha để kiểm soát thương mại tại vùng đất Kerala.[27] Sau đó, đến lượt người Hà Lan lại mắc vào giao tranh với vua Marthanda Varma của vương quốc Travancore. Năm 1741, quân Travancore đánh bại Hà Lan trong trận Colachel và chấm dứt tham vọng thuộc địa của Hà Lan tại Ấn Độ.[28] Nước Travancore sáp nhập các vương quốc láng giếng và vươn lên thành một thế lực mạnh tại Kerala.[29]

    Năm 1766, vua Hyder Ali của vương quốc Mysore tấn công miền bắc Kerala.[30] Con trai và người thừa kế Mysore của ông là Tippu Sultan giao chiến với Công ty Đông Ấn Anh nhưng sau đó thất bại và phải nhượng huyện Malabar và Dakshina Kannada cho người Anh vào thập niên 1790.[31][32][33] Công ty Đông Ấn nhanh chóng biến các tiểu vương quốc trong vùng trở thành xứ phụ thuộc: Kochi năm 1791 và Travancore năm 1795.[34] Vào cuối thế kỉ 18, toàn bộ vùng đất Kerala nằm dưới sự cai trị của thực dân Anh hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp qua các tiểu vương.[35]

    Đầu thế kỉ 20, tại Kerala diễn ra một số phong trào đấu tranh nổi bật. Năm 1921, cuộc nổi dậy Malabar diễn ra tại miền bắc Kerala khi người Hồi giáo Mappila chống lại người Anh và giới cai trị Ấn Độ giáo.[36] Tại Travancore ở miền nam Kerala, phong trào đấu tranh chống bất công xã hội đã dẫn đến việc thông qua một đạo luật năm 1936, cho phép người dân của tất cả mọi đẳng cấp được bước chân vào đền thờ Hindu.[37]

    Thời hiện đại

    Sau sự chia cắt Ấn Độ thành hai nước Ấn Độ và Pakistan vào năm 1947, vương quốc Travancore và thành phố cảng Kochi cùng gia nhập Ấn Độ và được ghép thành bang Travancore-Cochin.[38] Ngày 1 tháng 11 năm 1956, Đạo luật Tái tổ chức Bang chính thức thành lập bang Kerala bằng cách kết hợp phần lớn bang Travancore-Cochin (ngoại trừ 4 đơn vị hành chính gọi là taluk được sáp nhập vào bang Tamil Nadu) với huyện Malabar và huyện Kasaragod.[39][40] Năm 1957, người dân Kerala bầu ra chính phủ do Cộng sản lãnh đạo đầu tiên tại Ấn Độ do E. M. S. Namboodiripad lãnh đạo.[41][42][43] Chính phủ của ông sau đó tiến hành tái phân bổ đất đai và các cải cách giáo dục.

    ^ A Sreedhara Menon (ngày 1 tháng 1 năm 2007). A Survey Of Kerala History. DC Books. tr. 20–21. ISBN 978-81-264-1578-6. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2012. ^ “Unlocking the secrets of history”. The Hindu. Chennai, India. ngày 6 tháng 12 năm 2004. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 1 năm 2005. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2015. ^ Subodh Kapoor (ngày 1 tháng 7 năm 2002). The Indian Encyclopaedia. Cosmo Publications. tr. 2184. ISBN 978-81-7755-257-7. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2012. ^ “Wayanad”. kerala.gov.in. Government of Kerala. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2015. ^ Udai Prakash Arora; A. K. Singh (ngày 1 tháng 1 năm 1999). Currents in Indian History, Art, and Archaeology. Anamika Publishers & Distributors. tr. 116. ISBN 978-81-86565-44-5. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2012. ^ Udai Prakash Arora; A. K. Singh (ngày 1 tháng 1 năm 1999). Currents in Indian History, Art, and Archaeology. Anamika Publishers & Distributors. tr. 118, 123. ISBN 978-81-86565-44-5. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2012. ^ Udai Prakash Arora; A. K. Singh (ngày 1 tháng 1 năm 1999). Currents in Indian History, Art, and Archaeology. Anamika Publishers & Distributors. tr. 123. ISBN 978-81-86565-44-5. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2012. ^ “Symbols akin to Indus valley culture discovered in Kerala”. The Hindu. ngày 29 tháng 9 năm 2009. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2015. ^ Pradeep Kumar, Kaavya (ngày 28 tháng 1 năm 2014). “Of Kerala, Egypt, and the Spice link”. The Hindu. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2015. ^ Striving for sustainability, environmental stress and democratic initiatives in Kerala Lưu trữ 2016-12-26 tại Wayback Machine, p. 79; ISBN 81-8069-294-9, Srikumar Chattopadhyay, Richard W. Franke; Year: 2006. ^ Vincent A. Smith; A. V. Williams Jackson (ngày 30 tháng 11 năm 2008). History of India, in Nine Volumes: Vol. II – From the Sixth Century BCE to the Mohammedan Conquest, Including the Invasion of Alexander the Great. Cosimo, Inc. tr. 166. ISBN 978-1-60520-492-5. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2012. ^ The Cambridge Shorter History of India. CUP Archive. tr. 193. GGKEY:2W0QHXZ7K40. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2012. ^ Bhanwar Lal Dwivedi (ngày 1 tháng 1 năm 1994). Evolution of Education Thought in India. Northern Book Centre. tr. 164. ISBN 978-81-7211-059-8. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2012. ^ Cyclopaedia of India and of Eastern and Southern Asia. Lưu trữ 2016-12-27 tại Wayback Machine Ed. by Edward Balfour (1871), Second Edition. Volume 2. p. 584. ^ Iyengar PTS (2001). History Of The Tamils: From the Earliest Times to 600 A.D. Asian Educational Services. tr. 192–195. ISBN 81-206-0145-9. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2008. ^ Jonathan Goldstein (1999). The Jews of China. M.E. Sharpe. tr. 123. ISBN 978-0-7656-0104-9. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2015. ^ Nathan Katz (2000). Who Are the Jews of India?. University of California Press. tr. 245. ISBN 978-0-520-21323-4. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2015. ^ A Sreedhara Menon (ngày 1 tháng 1 năm 2007). A Survey Of Kerala History. DC Books. tr. 123–131. ISBN 978-81-264-1578-6. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2012. ^ R Asher (ngày 11 tháng 10 năm 2013). Malayalam. Routledge. Introduction p.xxiv. ISBN 978-1-136-10084-0. ^ “The Buddhist History of Kerala”. Kerala.cc. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2013. ^ A Sreedhara Menon (ngày 1 tháng 1 năm 2007). A Survey Of Kerala History. DC Books. tr. 138. ISBN 978-81-264-1578-6. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2012. ^ Educational Britannica Educational (ngày 15 tháng 8 năm 2010). The Geography of India: Sacred and Historic Places. The Rosen Publishing Group. tr. 311. ISBN 978-1-61530-202-4. Truy cập ngày 15 tháng 9 năm 2012. ^ “The Territories and States of India” (PDF). Europa. 2002. tr. 144–146. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2012. ^ Corn, Charles; Glasserman, Debbie (tháng 3 năm 1999). The Scents of Eden: A History of the Spice Trade. Kodansha America. ISBN 1-56836-249-8. ^ Ravindran PN (2000). Black Pepper: Piper Nigrum. CRC Press. tr. 3. ISBN 978-90-5702-453-5. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2007. ^ Philip D. Curtin (ngày 25 tháng 5 năm 1984). Cross-Cultural Trade in World History. Cambridge University Press. tr. 144. ISBN 978-0-521-26931-5. ^ South Asia 2006. Taylor & Francis. ngày 1 tháng 12 năm 2005. tr. 289. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2012. ^ Murkot Ramunny (ngày 1 tháng 1 năm 1993). Ezhimala: The Abode of the Naval Academy. Northern Book Centre. tr. 57–70. ISBN 978-81-7211-052-9. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2012. ^ A. Sreedhara Menon (1987). Political History of Modern Kerala. D C Books. tr. 140. ISBN 978-81-264-2156-5. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2012. ^ Raghunath Rai. History. FK Publications. tr. 14–. ISBN 978-81-87139-69-0. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2012. ^ The Edinburgh Gazetteer. Longman, Rees, Orme, Brown, and Green. 1827. tr. 63–. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2012. ^ Dharma Kumar (1965). Land and Caste in South India: Agricultural Labor in the Madras Presidency During the Nineteenth Century. CUP Archive. tr. 87–. GGKEY:T72DPF9AZDK. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2012. ^ K.P. Ittaman (ngày 1 tháng 6 năm 2003). History of Mughal Architecture Volume Ii. Abhinav Publications. tr. 30–. ISBN 978-81-7017-034-1. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2012. ^ Superintendent of Government Printing (1908). Imperial Gazetteer of India (Provincial Series): Madras. Calcutta: Government of India. tr. 22. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2007. ^ Kakkadan Nandanath Raj; Michael Tharakan; Rural Employment Policy Research Programme (1981). Agrarian reform in Kerala and its impact on the rural economy: a preliminary assessment. International Labour Office. tr. 2–3. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2012. ^ M. Naeem Qureshi (1999). Pan-Islam in British Indian Politics: A Study of the Khilafat Movement, 1918–1924. BRILL. tr. 445–447. ISBN 90-04-11371-1. ^ Bardwell L. Smith (1976). Religion and Social Conflict in South Asia. BRILL. tr. 35–42. ISBN 978-90-04-04510-1. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2012. ^ Gopa Sabharwal (2007). India Since 1947: The Independent Years. Penguin Books India. tr. 23–. ISBN 978-0-14-310274-8. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2012. ^ Tmh. General Knowledge Digest 2010. Tata McGraw-Hill Education. tr. 3. ISBN 978-0-07-069939-7. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2012. ^ Sarina Singh; Amy Karafin; Anirban Mahapatra (ngày 1 tháng 9 năm 2009). South India. Lonely Planet. ISBN 978-1-74179-155-6. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2013. ^ K.G. Kumar (ngày 12 tháng 4 năm 2007). “50 years of development”. The Hindu. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2013. ^ Manali Desai (ngày 27 tháng 11 năm 2006). State Formation and Radical Democracy in India. Taylor & Francis. tr. 142. ISBN 978-0-203-96774-4. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2013. ^ Madan Gopal Chitkara; Baṃśī Rāma Śarmā (ngày 1 tháng 1 năm 1997). Indian Republic: Issues and Perspective. APH Publishing. tr. 134–. ISBN 978-81-7024-836-1. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2012.
    Read less

Where can you sleep near Kerala ?

Booking.com
493.642 visits in total, 9.222 Points of interest, 405 Đích, 159 visits today.