San Francisco

San Francisco (; theo tiếng Tây Ban Nha là "Thánh Phanxicô"), tên chính thức là Thành phố và Quận San Francisco (tiếng Anh: City and County of San Francisco), là một trung tâm văn hóa, thương mại và tài chính ở tiểu bang California của Hoa Kỳ. Tọa lạc tại miền Bắc California, San Francisco là thành phố đông dân thứ 17 ở Hoa Kỳ và là thành phố đông dân thứ tư ở California, với 873.965 cư dân tính đến năm 2020. Nó có diện tích khoảng 46,9 dặm vuông Anh (121 kilômét vuông), chủ yếu nằm ở cực bắc của Bán đảo San Francisco thuộc Khu vực vịnh San Francisco, nó trở thành thành phố lớn có mật độ dân số cao thứ hai của Hoa Kỳ và là quận có mật độ dân số cao thứ năm của Hoa Kỳ, chỉ sau bốn trong số năm quận của Thành phố New York. San Francisco là vùng đô thị lớn thứ 12 ở Hoa Kỳ với 4,7 triệu cư dân và là lớn thứ tư theo sản lượng kinh tế, với GDP là 592 tỷ đô la vào năm 2019. Cùng với San Jose, California, nó tạo thành khu vực thống kê...Xem thêm

San Francisco (; theo tiếng Tây Ban Nha là "Thánh Phanxicô"), tên chính thức là Thành phố và Quận San Francisco (tiếng Anh: City and County of San Francisco), là một trung tâm văn hóa, thương mại và tài chính ở tiểu bang California của Hoa Kỳ. Tọa lạc tại miền Bắc California, San Francisco là thành phố đông dân thứ 17 ở Hoa Kỳ và là thành phố đông dân thứ tư ở California, với 873.965 cư dân tính đến năm 2020. Nó có diện tích khoảng 46,9 dặm vuông Anh (121 kilômét vuông), chủ yếu nằm ở cực bắc của Bán đảo San Francisco thuộc Khu vực vịnh San Francisco, nó trở thành thành phố lớn có mật độ dân số cao thứ hai của Hoa Kỳ và là quận có mật độ dân số cao thứ năm của Hoa Kỳ, chỉ sau bốn trong số năm quận của Thành phố New York. San Francisco là vùng đô thị lớn thứ 12 ở Hoa Kỳ với 4,7 triệu cư dân và là lớn thứ tư theo sản lượng kinh tế, với GDP là 592 tỷ đô la vào năm 2019. Cùng với San Jose, California, nó tạo thành khu vực thống kê kết hợp San Jose–San Francisco–Oakland đông dân thứ năm ở Hoa Kỳ, với 9,6 triệu cư dân tính đến năm 2019. Các biệt danh thông tục dành cho San Francisco bao gồm SF, San Fran, The City ("Thành phố") và Frisco.

Năm 2019, San Francisco là quận có thu nhập cao thứ bảy ở Hoa Kỳ, với thu nhập bình quân đầu người là 139.405 đô la. Trong cùng năm, San Francisco có GDP là 203,5 tỷ đô la và GDP bình quân đầu người là 230.829 đô la. Khu vực thống kê kết hợp San Jose–San Francisco–Oakland có GDP là 1,09 nghìn tỷ đô la vào năm 2019, là vùng kinh tế lớn thứ ba của quốc gia này. Trong số 105 khu vực thống kê chính tại Hoa Kỳ với hơn 500.000 cư dân, CSA này có GDP bình quân đầu người cao nhất vào năm 2019, ở mức 112.348 đô la. San Francisco được xếp thứ 12 trên thế giới và thứ hai ở Hoa Kỳ về Chỉ số Tài chính Toàn cầu tính đến tháng 3 năm 2021.

San Francisco được thành lập vào ngày 29 tháng 6 năm 1776, khi những người thực dân Tây Ban Nha thành lập Pháo đài San Francisco tại eo biển Golden Gate và cách đó vài dặm là trụ sở hội truyền giáo San Francisco de Asís, cả hai đều được đặt theo tên của Phanxicô thành Assisi. Cơn sốt vàng California năm 1849 đã mang lại tốc độ phát triển nhanh chóng, khiến nó trở thành thành phố lớn nhất ở Bờ Tây vào thời điểm đó; từ năm 1870 đến năm 1900, khoảng một phần tư dân số tiểu bang California cư trú tại thành phố. Năm 1856, San Francisco trở thành một quận-thành phố thống nhất. Sau khi ba phần tư thành phố bị phá hủy do trận động đất và hỏa hoạn năm 1906, nó nhanh chóng được xây dựng lại, đây là nơi đăng cai Triển lãm Quốc tế Panama–Thái Bình Dương 9 năm sau đó. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, nó là một bến cảng chính cho các hoạt động vận chuyển binh sĩ đến Mặt trận Thái Bình Dương. Sau đó, nó cũng trở thành nơi ra đời của Liên Hợp Quốc vào năm 1945. Sau chiến tranh, sự trở về của các quân nhân, lượng người nhập cư đáng kể, quan điểm tự do hóa, sự trỗi dậy của những nền văn hóa phản kháng như "beatnik" và "hippie", cách mạng tình dục, phong trào hòa bình phát triển từ việc phản đối sự can thiệp của Hoa Kỳ vào Chiến tranh Việt Nam, và các yếu tố dẫn đến Mùa hè Tình yêu và phong trào đòi quyền lợi cho người đồng tính, củng cố San Francisco như một trung tâm hoạt động tự do ở Hoa Kỳ. Về mặt chính trị, thành phố chủ trương theo đường lối của Đảng Dân chủ.

Là một địa điểm du lịch nổi tiếng, San Francisco được biết đến với mùa hè mát mẻ, sương mù, những ngọn đồi dốc, sự kết hợp đa dạng của nhiều nền kiến trúc khác nhau, và các địa danh bao gồm Cầu Cổng Vàng, tàu điện cáp treo, Nhà tù Alcatraz, Bến Ngư Phủ và Khu phố Tàu. San Francisco còn là nơi đặt trụ sở chính của các công ty như Wells Fargo, Twitter, Square, Airbnb, Levi Strauss & Co., Gap Inc., Salesforce, Dropbox, Pacific Gas and Electric Company, Uber và Lyft. Thành phố này cùng với Vùng Vịnh xung quanh là trung tâm toàn cầu của khoa học và nghệ thuật đồng thời là nơi đặt trụ sở của một số tổ chức giáo dục và văn hóa, chẳng hạn như Đại học California, San Francisco (UCSF), Đại học San Francisco (USF), Đại học Liên bang San Francisco (SFSU), Bảo tàng de Young, Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại San Francisco, Trung tâm SFJAZZ, Nhà hát Giao hưởng San Francisco và Học viện Khoa học California. Gần đây, hạn hán trên toàn tiểu bang California đã gây ảnh hưởng xấu đến an ninh nguồn nước của thành phố.

Lịch sử
Những sự sáp nhập trong lịch sử
  Đế quốc Tây Ban Nha 1776–1821
  Đệ Nhất Đế chế México 1821–1823
México  Hợp chúng quốc México 1823–1848
  Hoa Kỳ 1848–nay
 Tòa nhà hội truyền giáo San Francisco de Asís (Hội truyền giáo Dolores)

Bằng chứng khảo cổ xưa nhất về sự sinh sống của con người trong khu vực thành phố San Francisco là vào năm 3000 TCN.[1] Nhóm Yelamu thuộc tộc người Ohlone đã sống trong vài ngôi làng nhỏ khi một đoàn thám hiểm Tây Ban Nha của Don Gaspar de Portolà đến nơi vào ngày 2 tháng 11 năm 1769, đây là chuyến viếng thăm khu vực vịnh San Francisco đầu tiên của người Hoa được ghi chép.[2] Bảy năm sau đó, vào ngày 28 tháng 3 năm 1776, Tây Ban Nha thiết lập một trại binh và sau đó là một tòa nhà truyền giáo có tên là "Missión de San Francisco de Asís" (hay "Missión Dolores").

Ngay sau khi độc lập khỏi Tây Ban Nha năm 1821, khu vực này trở thành một phần đất của México. Dưới quyền của chính phủ Mexico, hội truyền giáo dần dần kết thúc và phần đất của hội được tư nhân hóa. Năm 1835, một người Anh có tên William Richardson lập ra khu đất nông trại độc lập đầu tiên,[3] gần một bến tàu quanh khu vực ngày nay là Quảng trường Portsmouth. Cùng với Francisco de Haro, ông lập ra bản thiết kế đường phố để mở rộng khu định cư. Một thị trấn được đặt tên là Yerba Buena bắt đầu hấp dẫn người định cư Mỹ tìm đến đây. Chuẩn tướng John D. Sloat tuyên bố chủ quyền California nhân danh Hoa Kỳ vào ngày 7 tháng 7 năm 1846 trong cuộc Chiến tranh Mexico-Mỹ. Hai ngày sau đó, Đại tá John B. Montgomery đến và tuyên bố chủ quyền đối với Yerba Buena. Yerba Buena được đổi tên thành San Francisco ngày 30 tháng 1 vào năm sau đó,[4] và Mexico chính thức nhượng lãnh thổ cho Hoa Kỳ vào cuối chiến tranh. Mặc dù vị trí hấp dẫn của nó trong vai trò của một hải cảng và căn cứ hải quân, San Francisco vẫn là một khu định cư nhỏ với địa hình khó có thể sinh sống được.[5]

 Quảng trường Portsmouth năm 1851 Cảng San Francisco năm 1851

Cơn sốt vàng California mang đến làn sóng người đi tìm vàng. Với bánh mì bột chua mang theo,[6] những người tìm thời vận tập trung tại San Francisco thay vì thành phố đối thủ Benicia,[7] làm cho dân số của San Francisco tăng từ 1000 vào năm 1848 lên đến 25.000 vào tháng 12 năm 1849.[8] Kỳ vọng vào sự giàu có nhanh chóng thì rất đổi mạnh mẽ đến nổi những thuyền viên của những con tàu cập bến đều bỏ tàu và nhanh chóng tìm đến các khu tìm vàng, bỏ lại một rừng cột buồm tại bến tàu San Francisco.[9] California nhanh chóng được thu nhận thành một tiểu bang. Quân đội Hoa Kỳ xây dựng đồn Point tại Golden Gate và một đồn trên đảo Alcatraz để bảo vệ Vịnh San Francisco. Sự phát hiện ra các mỏ bạc, bao gồm mỏ bạc Comstock năm 1859, đã đẩy dân số lên nhanh hơn nữa.[10] Với từng đoàn người đi tìm thời vận tỏa khắp thành phố, tình trạng vô luật pháp trở nên phổ biến. Khu duyên hải Barbary của thị trấn khét tiếng là nơi dung thân của tội phạm, cờ bạc và mại dâm.[11]

Các doanh nghiệp tìm cách kiếm lợi trên sự thịnh vượng mà cơn sốt vàng tạo ra. Những người thắng lớn đầu tiên là ngành công nghiệp ngân hàng mà tiêu biểu là ngân hàng Wells Fargo được thành lập vào năm 1852 và Bank of California năm 1864. Sự phát triển cảng San Francisco và việc thành lập tuyến giao thông trên bộ năm 1869 vươn tới hệ thống đường sắt nằm ở phía đông Hoa Kỳ qua ngã tuyến đường sắt vừa mới được hoàn thành có tên là Đường sắt Thái Bình Dương đã giúp biến khu vực vịnh San Francisco thành một trung tâm giao thương. Để thỏa mãn nhu cầu và khẩu vị của dân số gia tăng, Levi Strauss mở một tiệm bán quần áo và Domingo Ghirardelli bắt đầu sản xuất Sô-cô-la. Các lao công di dân đã biến nơi đây thành một nơi văn hóa đa ngôn ngữ. Công nhân xây dựng đường sắt người Trung Hoa lập nên khu Phố Tàu của thành phố. Năm 1870, người châu Á(đa số là người Hoa) chiếm đến 8% dân số.[12] Xe cáp đầu tiên chuyên chở người San Francisco lên đến Phố Clay vào năm 1873. Biển nhà kiểu kiến trúc Victoria của thành phố bắt đầu hình thành và các nhà lãnh đạo dân sự đã vận động để thành phố xây dựng một công viên công cộng rộng rãi với kết quả là Công viên Cổng Vàng được quy hoạch. Những người San Francisco xây trường học, nhà thờ, nhà hát và tất cả các nhu yếu cho cuộc sống dân sự. Đồn lũy San Francisco được phát triển thành cơ sở quân sự quan trọng nhất của Hoa Kỳ trên duyên hải Thái Bình Dương.[13] Năm 1890, dân số San Francisco đạt đến con số 300 ngàn người và trở thành thành phố lớn thứ 8 của Hoa Kỳ vào thời gian đó. Khoảng năm 1901, San Francisco là một thành phố lớn được biết đến vì kiểu cách chói lọi, các khách sạn oai vệ, các biệt thự khang trang nằm trên Nob Hill và một phong cảnh nghệ thuật phong phú.[14] Cơn dịch Bắc Mỹ đầu tiên là cơn dịch San Francisco 1900–1904.[15]

 
"Chưa từng có trong lịch sử một thành phố đế quốc hiện đại nào lại bị tàn phá hoàn toàn. San Francisco đã biến mất." –Jack London sau trận động đất và hỏa hoạn năm 1906[16]

Vào lúc 5:12 sáng ngày 18 tháng 4 năm 1906, một trận động đất lớn làm rung chuyển San Francisco và Bắc California. Khi các tòa nhà đổ sập vì run lắc, các đường ống dẫn khí đốt bị hư hại đã gây ra những đám cháy lan khắp thành phố. Trận cháy không thể dập tắt được đã kéo dài mấy ngày đêm. Vì hệ thống nước không hoạt động nên Quân đoàn Pháo binh của Đồn San Francisco tìm cách ngăn chặn đám cháy bằng cách đặt chất nổ phá hủy các dãy phố để tạo ra những điểm cách lửa.[17] Hơn ba phần tư thành phố bị tàn phá trong đó có phần lớn toàn bộ khu trung tâm thành phố.[18] Con số thương vong đương thời được báo cáo là khoảng 498 người thiệt mạng nhưng các con số ước đoán hiện đại cho rằng có thể là vài ngàn người.[19] Hơn nữa dân số thành phố 400 ngàn người trở thành vô gia cư.[20] Người tị nạn định cư tạm thời trong các khu lều tạm được dựng lên trong Công viên Cổng Vàng, đồn San Francisco, trên các bãi biển, và khắp các nơi khác. Nhiều người đã rời bỏ thành phố vĩnh viễn để tới East Bay (vịnh phía đông).

 Cung điện Mỹ thuật tại Hội chơ Quốc tế Panama-Thái Bình Dương năm 1915

Cuộc tái thiết được tiến hành nhanh chóng trên mức độ lớn. Bỏ qua những lời kêu gọi tái điều chỉnh lại hoàn toàn các đường phố theo chiều ngang dọc thẳng hàng, người San Francisco đã chọn lựa tốc độ tái thiết nhanh chóng.[21] Ngân hàng Ý của Amadeo Giannini sau đó trở thành Bank of America, cung cấp các khoản vay vốn cho nhiều người mà kế sinh nhai đã bị hủy hoại sau trận động đất. Hội Nghiên cứu Đô thị và Quy hoạch San Francisco đầy ảnh hưởng được thành lập vào năm 1910 nhằm chú tâm đến chất lượng nhà ở sau trận động đất.[22] Trận động đất đã thúc đẩy việc phát triển các khu dân cư phía tây. Các khu dân cư này vẫn tồn tại sau trận hỏa hoạn trong đó có khu Pacific Heights là nơi nhiều người giàu có của thành phố đã tái xây dựng nhà của họ.[23] Tiếp theo, các ngôi biệt thự bị tàn phá của khu Nob Hill trở thành các khách sạn lớn. Tòa thị chính San Francisco lại được xây dựng theo kiểu kiến trúc Beaux-Arts tráng lệ, và thành phố ăn mừng sinh nhật vào dịp Hội chợ Quốc tế Panama-Thái Bình Dương năm 1915.[24]

 Quảng trường Thống nhất (Union Square) năm 1905

Chính trong thời kỳ này San Francisco đã xây dựng một số dự án cơ sở hạ tầng quan trọng nhất của thành phố. Kỹ sư công chính Michael O'Shaughnessy được thị trưởng James Rolph thuê mướn làm kỹ sư trưởng của thành phố vào tháng 9 năm 1912 để trông coi việc xây dựng hồ chứa nước Twin Peaks, đường hầm Phố Stockton, đường hầm Twin Peaks, đường sắt thành phố San Francisco, một hệ thống chữa cháy áp suất cao, và hệ thống cống nước thảy mới. Hệ thống chuyên chở thô sơ của San Francisco mà một số tuyến đường J, K, L, M, và N vẫn còn tồn tại ngày nay, được gấp rút hoàn thành dưới sự giám sát của O'Shaughnessy giữa năm 1915 và 1927. Chính Đập O'Shaughnessy, Hồ chứa nước Hetch Hetchy, và Cống nước Hetch Hetchy đã có ảnh hưởng lớn nhất đối với thành phố San Francisco.[25] Sự cung cấp nước dồi dào cho phép San Francisco trở thành thành phố San Francisco như bây giờ.

 Cầu Vịnh San Francisco–Oakland, đang xây dựng năm 1935, phải mất 40 tháng để hoàn thành.

Trong những năm tiếp theo, thành phố củng cố vị thế của mình như một thủ phủ tài chính. Kết quả là sau sự kiện thị trường chứng khoáng sụp đổ năm 1929, không có một ngân hàng đơn lẻ nào có trụ sở chính tại San Francisco bị sụp đổ.[26] Thật ra, ngay ở lúc cao trào của đại khủng hoảng thì San Francisco đã tiến hành hai dự án kỹ thuật công chánh vĩ đại, đồng lúc xây dựng cầu Vịnh San Francisco – Oakland và cầu Cổng Vàng, hoàn thành chúng vào năm 1936 và 1937 theo thứ tự vừa kể. Chính trong thời kỳ này đảo Alcatraz, một trại giam quân sự xưa, bắt đầu phục vụ trong vai trò một nhà tù liên bang với mức độ an ninh tối đa, giam giữ những phạm nhân khét tiếng như Al Capone, và Robert Franklin Stroud (biệt danh Birdman of Alcatraz). San Francisco sau đó ăn mừng sự tái sinh vị thế quyền lực của mình bằng một hội chợ thế giới, đó là Hội chợ Quốc tế Golden Gate năm 1939–40. Thành phố xây dựng đảo Treasure nhân tạo giữa vịnh San Francisco để làm nơi tổ chức hội chợ này.

 USS San Francisco chạy qua bên dưới cầu Cổng Vàng năm 1942 trong thời Chiến tranh thế giới thứ hai.

Suốt Chiến tranh thế giới thứ hai, Xưởng sửa chữa tàu Hải quân Hunters Point trở thành một trung tâm hoạt động hải quân, và đồn Mason trở thành cảng chính yếu đưa quân phục vụ Mặt trận Thái Bình Dương.[27] Sự bùng nổ việc làm đã kéo nhiều người, đặc biệt là người Mỹ gốc châu Phi từ miền Nam Hoa Kỳ, đến khu vực này. Sau chiến tranh, nhiều quân nhân trở về từ ngoại quốc và các thường dân trước kia đến đây tìm việc làm đã quyết định ở lại đây. Hiến chương tạo nên Liên Hợp Quốc được thảo ra và ký tại thành phố San Francisco năm 1945 vào năm 1951, Hiệp ước San Francisco chính thức kết thúc chiến tranh với Nhật Bản.

Các dự án quy hoạch đô thị trong thập niên 1950 và thập niên 1960 bao gồm việc phá hủy và tái phát triển rộng khắp các khu dân cư phía tây và xây dựng các xa lộ cao tốc mới. Tuy nhiên chỉ có một loạt các đoạn xa lộ cao tốc ngắn được xây dựng trước khi chúng bị đình chỉ xây dựng vì sự phản đối của người dân thành phố.[28] Khi việc chuyên chở bằng côngtenơ được khởi sự thì các cầu tàu nhỏ của thành phố San Francisco trở nên lỗi thời vì thế các hoạt động chuyên chở hàng hóa được di chuyển đến cảng Oakland lớn hơn.[29] Thành phố bắt đầu mất các việc làm công nghiệp và chuyển sang du lịch như ngành quan trọng nhất trong nền kinh tế của mình.[30] Các khu ngoại ô trải qua sự phát triển nhanh chóng. San Francisco cũng trải qua sự thay đổi nhân khẩu đáng kể khi từng đợt lớn dân số người da trắng rời bỏ thành phố và được thay thế bởi một làn sóng di dân gia tăng từ châu Á và Mỹ Latinh đến.[31] Từ năm 1950 đến năm 1980, thành phố mất trên 10 phần trăm dân số.

Trải qua thời kỳ này, San Francisco trở thành một nam châm cho phong trào phản-văn hóa của Mỹ. Các nhà văn thế hệ Beat tiếp lửa cho phong trào Phục hưng San Francisco và tập trung trên khu dân cư North Beach trong thập niên 1950.[32] Những người theo phong trào Hippie đổ xô đến khu dân cư Haight-Ashbury vào thập niên 1960 với đỉnh điểm là hiện tượng xã hội Summer of Love năm 1967.[33] Năm 1974, các vụ giết người trong vụ án Zebra đã khiến cho ít nhất 16 người chết. Hai mươi hai vụ gây án xảy ra trong khoảng thời gian dài 6 tháng mà đa số nạn nhân là người da trắng với ba nghi can bị bắt là người da đen.[34] Trong thập niên 1970, thành phố trở thành một trung tâm của phong trào dân quyền của người đồng tính với sự lộ diện của khu dân cư The Castro trong vai trò một làng đô thị của người đồng tính, sự kiện Harvey Milk (người tự nhận là đồng tính) được bầu vào Hội đồng Giám sát San Francisco, và vụ ám sát ông cùng với thị trưởng George Moscone năm 1978.[35]

 San Francisco nhìn từ khu Marin Headlands với cầu Cổng Vàng ở phía trước mặt

Bank of America hoàn thành tòa nhà "555 California Street" năm 1969 và tòa nhà Transamerica Pyramid được hoàn thành năm 1972,[36] làm dấy lên một làn sóng "Manhattan hóa" (Manhattan là trung tâm của Thành phố New York nơi có nhiều tòa nhà chọc trời) kéo dài cho đến cuối thập niên 1980, một thời kỳ phát triển kéo dài để xây các tòa nhà cao tầng trong khu vực trung tâm thành phố.[37] Thập niên 1980 cũng chứng kiến một sự gia tăng lớn con số người vô gia cư trong thành phố, đây là một vấn đề vẫn còn tồn tại đến ngày nay cho dù nhiều cố gắng đã được thực hiện để đối phó tình trạng này.[38] Trận động đất Loma Prieta 1989 gây tàn phá và thiệt hại nhân mạng khắp khu vực vịnh San Francisco. Tại thành phố San Francisco, trận động đất làm hự hại nặng các công trình trong khu Marina và South of Market. Xa lộ cao tốc Embarcadero bị hư hại và phần lớn Xa lộ cao tốc Central bị hư hại cần phải bị phá hủy để thành phố tu sửa lại mặt tiền bờ biển phố chính lịch sử của thành phố và làm tái sinh khu dân cư Hayes Valley.

Trong thời kỳ bùng nổ dot-com, các công ty mới mở đã tiếp thêm sinh lực cho nền kinh tế thành phố. Một số lớn các doanh nghiệp và nhà phát triển ứng dụng điện toán dời vào thành phố, theo sau là các chuyên gia bán hàng, thiết kế và tiếp thị, làm thay đổi bộ mặt xã hội thành phố khi các khu dân cư trước đây nghèo nàn hơn bổng trở nên ngày càng năng động.[39] Nhu cầu đối với nhà ở mới và chỗ làm văn phòng đã khiến tạo nên một làm sóng phát triển nhà cao tầng lần thứ hai và lần này là khu South of Market.[40] Vào năm 2000, dân số thành phố lên đến con số cao mới, vượt qua kỷ lục được ghi nhận của năm 1950. Khi bong bóng Dot-com xẹp vào năm 2001 nhiều trong số các công ty này gói gọn lại và sa thảy công nhân của mình. Tuy nhiên kỹ thuật cao và doanh nghiệp tự lập vẫn là dòng chính của nền kinh tế San Francisco. Sự bùng nổ mạng truyền thông xã hội châm ngòi cho sự phát triển kinh tế thành phố trong thập niên thứ hai của tân thế kỷ.[41]

^ Stewart, Suzanne B. (2003). “Archaeological Research Issues For The Point Reyes National Seashore – Golden Gate National Recreation Area” (PDF). Sonoma State University – Anthropological Studies Center. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2008. ^ “Visitors: San Francisco Historical Information”. City and County of San Francisco. 14 tháng 2 năm 2024. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 3 năm 2006. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2008. ^ The Virtual Museum of the City of San Francisco (ngày 16 tháng 7 năm 2004). “From the 1820s to the Gold Rush”. The Virtual Museum of the City of San Francisco. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2008. ^ “History of Yerba Buena Gardens”. MJM Management Group. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2015. ^ Wiley, Peter Booth (2000). National trust guide- San Francisco: America’s guide for architecture and history travelers. New York: John Wiley & Sons, Inc. tr. 4–5. ISBN 978-0-471-19120-9. OCLC 44313415. ^ Sourdough bread was a staple of western explorers and miners of the 19th century. It became an iconic symbol of San Francisco, and is still a staple of city life today.Tamony, Peter (1973). “Sourdough and French Bread”. Western Folklore. Western States Folklore Society. 32 (4): 265–270. doi:10.2307/1498306. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2008. ^ “San Francisco's First Brick Building”. The Virtual Museum of the City of San Francisco. ngày 16 tháng 7 năm 2004. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2008. ^ Richards, Rand (1992). Historic San Francisco: A Concise History and Guide. Heritage House. ISBN 978-1-879367-00-5. OCLC 214330849. ^ Harris, Ron (ngày 14 tháng 11 năm 2005). “Crews Unearth Shipwreck on San Francisco Condo Project”. Associated Press. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2006. ^ Wiley, Peter Booth (2000). National trust guide- San Francisco: America’s guide for architecture and history travelers. New York: John Wiley & Sons, Inc. tr. 31–33. ISBN 978-0-471-19120-9. OCLC 44313415. ^ "The miners came in forty-nine, / The whores in fifty-one, / And when they got together / They produced the native son." Wiley, Peter Booth (2000). National trust guide- San Francisco: America’s guide for architecture and history travelers. New York: John Wiley & Sons, Inc. tr. 237–238. ISBN 978-0-471-19120-9. OCLC 44313415. ^ “Historical Census Statistics On Population Totals By Race, 1790 to 1990, and By Hispanic Origin, 1970 to 1990, For Large Cities And Other Urban Places In The United States”. U.S. Census Bureau. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2011. ^ “Under Three Flags” (PDF). Golden Gate National Recreation Area Brochures. US Department of the Interior. 2004. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2011. ^ Wiley, Peter Booth (2000). National trust guide- San Francisco: America’s guide for architecture and history travelers. New York: John Wiley & Sons, Inc. tr. 44–55. ISBN 978-0-471-19120-9. OCLC 44313415. ^ Kalisch, Philip A. (1972). “The Black Death in Chinatown: Plague and Politics in San Francisco 1900–1904”. Arizona and the West. Journal of the Southwest. 14 (2): 113–136. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2015. ^ Jack London Writes of the 1906 San Francisco Earthquake and Fire ^ “1906 Earthquake: Fire Fighting”. Golden Gate National Recreation Area. US Department of the Interior. ngày 24 tháng 12 năm 2003. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2008. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên Montagne ^ “Casualties and Damage after the 1906 earthquake”. Earthquake Hazards Program – Northern California. US Geological Survey. ngày 25 tháng 1 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 6 năm 2009. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2008. ^ “1906 Earthquake and the Army”. Golden Gate National Recreation Area. US Department of the Interior. ngày 25 tháng 8 năm 2004. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2008. ^ Wiley, Peter Booth (2000). National trust guide- San Francisco: America’s guide for architecture and history travelers. New York: John Wiley & Sons, Inc. tr. 56–62. ISBN 978-0-471-19120-9. OCLC 44313415. ^ “SPUR Our Mission and History”. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2013. ^ O'Brien, Tricia (2008). San Francisco's Pacific Heights and Presidio Heights. San Francisco: Arcadia Publishing. tr. 7. ISBN 978-0-7385-5980-3. ^ Wiley, Peter Booth (2000). National trust guide- San Francisco: America’s guide for architecture and history travelers. New York: John Wiley & Sons, Inc. tr. 9. ISBN 978-0-471-19120-9. OCLC 44313415. ^ “Virtual Museum of the City of San Francisco - M.M. O'Shaughnessy Employed as City Engineer”. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2013. ^ “San Francisco Gold Rush Banking – 1849”. The Virtual Museum of the City of San Francisco. ngày 24 tháng 6 năm 2004. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 5 năm 2008. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2008. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên WWII ^ Carlsson, Chris (2008). “The Freeway Revolt”. Historical Essay. Found San Francisco. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2013. ^ Rubin, Jasper (1999), “The Decline of the Port - A look at the transformation of the Port of San Francisco”, SPUR Newsletter, San Francisco Planning and Urban Research Association, truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2013, The final, insurmountable decline in San Francisco's shipping activity was heralded in 1958 by the departure of the first containerized freighter from San Francisco Bay. ^ Terplan, Egon (ngày 7 tháng 6 năm 2010), “Organizing for Economic Growth - A new approach to business attraction and retention in San Francisco”, SPUR Report, San Francisco Planning and Urban Research Association, truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2013, During the 1960s and 1970s San Francisco's historic maritime industry relocated to Oakland.... San Francisco remained a center for business and professional services (such as consulting, law, accounting and finance) and also successfully developed its tourism sector, which became the leading local industry. ^ Willis, James (ngày 19 tháng 4 năm 2004). “San Francisco Planning Department Census Data Analysis” (PPT). San Francisco State University. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2008. Đã định rõ hơn một tham số trong author-name-list parameters (trợ giúp) ^ Wiley, Peter Booth (2000). National trust guide- San Francisco: America’s guide for architecture and history travelers. New York: John Wiley & Sons, Inc. tr. 240–242. ISBN 978-0-471-19120-9. OCLC 44313415. ^ “American Experience: Summer of Love: Film Description”. Website for American Experience documentary on the Summer of Love. PBS. ngày 14 tháng 3 năm 2007. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2008. ^ “Fear in the Streets of San Francisco”. Time. ngày 29 tháng 4 năm 1974. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 1 năm 2008. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2013. Đã bỏ qua tham số không rõ |= (trợ giúp); Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl= và |archive-url= (trợ giúp); Đã định rõ hơn một tham số trong |accessdate= và |access-date= (trợ giúp) ^ “San Francisco History: The 1970s and 1980s: Gay Rights”. Destinations: San Francisco. Frommers.com. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 6 năm 2007. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2008. ^ “Pyramid Facts”. Company Profile. Transamerica Insurance and Investment Group. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2015. ^ Wiley, Peter Booth (2000). National trust guide- San Francisco: America’s guide for architecture and history travelers. New York: John Wiley & Sons, Inc. tr. 95–96. ISBN 978-0-471-19120-9. OCLC 44313415. ^ Fagan, Kevin (ngày 4 tháng 8 năm 2006). “S.F.'s Homeless Aging on the Street / Chronic health problems on the rise as median age nears 50”. San Francisco Chronicle. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2012. The findings support what many social workers have long suspected – that there was a "big bang" homeless population explosion as federal housing programs were slashed and the closing of mental hospitals hit home in the mid-1980s and that this core group constitutes the bulk of the street population. ^ Nieves, Evelyn (ngày 5 tháng 11 năm 2000). “Mission District Fights Case of Dot-Com Fever”. The New York Times. Truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2012. ^ Nolte, Carl (ngày 2 tháng 1 năm 2008). “High-rises are a sign of the times in changing San Francisco”. San Francisco Chronicle. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2012. ^ Ted Egan (ngày 3 tháng 4 năm 2006). “City and County of San Francisco: An Overview of San Francisco's Recent Economic Performance” (PDF). Report prepared for Mayor’s Office of Economic and Workforce Development. ICF Consulting. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 1 tháng 2 năm 2009. Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2008. Another positive trend for the future is San Francisco’s highly entrepreneurial, flexible and innovative economy...San Francisco’s very high reliance on small business and self-employment is typical of other dynamic, fast-growing, high-technology areas across the country.
Photographies by:
Statistics: Position
3381
Statistics: Rank
33693

Viết bình luận

Câu hỏi này dùng để kiểm tra xem bạn là người hay là chương trình tự động.

Security
243186795Click/tap this sequence: 8289

Google street view

Where can you sleep near San Francisco ?

Booking.com
490.247 visits in total, 9.200 Points of interest, 404 Đích, 15 visits today.